• Cá cảnh

    Hotline: 012.5800.5800

  • thiết bị nuôi

    hotline: 012.5800.5800

  • Giống thủy đặc sản

    Hotline: 012.5800.5800

  • Thuốc và hóa chất

    Hotline: 012.5800.5800

Showing posts with label Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng. Show all posts
Showing posts with label Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng. Show all posts

Mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cua và cá đối (14/07/2011)

Mô hình được Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn quản lý tài nguyên (CORENARM) thuộc Liên hiệp hội Thừa Thiên Huế phối hợp triển khai thực hiện tại thôn Thuận Hòa, xã Hương Phong, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mặc dù thời tiết không thuận lợi, nhưng trọng lượng trung bình của các đối tượng nuôi vào lúc thu hoạch đạt 95% so với yêu cầu đặt ra. Cụ thể tôm sú đạt 38 con/kg, cua 0,28 kg/con và cá đối 0,25 kg/con, cá đối mục đạt 0,2 kg/con. Nhờ tham gia mô hình mà hộ ông Nguyễn Lương thu được lãi ròng gần 30 triệu đồng chỉ với 6.000 m2 diện tích ao nuôi, ông Bùi Phước Chương, Phó giám đốc CORENARM cho biết.

Kỹ thuật nuôi cá đối mục thương phẩm trong ao đất




Có hai hình thức nuôi cá đối mục trong ao đất, đó là: Nuôi đơn: cá đối mục được nuôi bán thâm canh và thâm canh trong các ao nuôi chuyên canh; Nuôi ghép: cá đối mục thường được nuôi ghép với các loài cá khác như cá chép thường, cá trắm cỏ, cá chép bạc, cá rô phi và cá măng biển; có thể nuôi được trong vùng nước lợ, nước ngọt và nước mặn.

Nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao: điều cần chú ý!



 Chuẩn bị cho vụ nuôi đầu tiên của năm mới 2012, một chủ đề đang được các nhà đầu tư và hộ nuôi tôm quy mô nhỏ quan tâm thảo luận trong thời gian vừa qua đó là sự chuyển dịch từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ chân trắng và hiệu quả của việc chuyển đổi này.
Giống như khi nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng cũng không phải là một ngoại lệ. Sau những thành công bước đầu, tay nghề được nâng lên, người nuôi thường có xu hướng tăng dần mật độ nuôi từ 100 con / m2 lên 150-200 con / m2. Trong năm vừa qua có những ông chủ đã thử nuôi mật độ 400 - 500 con / m2 (Hoành Bồ, Quảng Ninh).
Hệ thống ao hồ, trang thiết bị hoàn chỉnh, con giống sạch bệnh, công nghệ nuôi tiên tiến cùng với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm trong và ngoài nước phần nào làm yên tâm các nhà đầu tư lớn khi họ nuôi trên hệ thống ao có lót bạt nilon, có ao trữ, ao lắng, hệ thống quạt nước, sục khí đáy và kiểm tra, theo dõi hàng ngày các thông số môi trường chất lượng nước.
Trong khi đó những người nuôi quy mô nhỏ, tập trung dạng nuôi quảng canh cải tiến, bán công nghiệp sau khi đầu tư thêm một số thiết bị và cải tạo lại ao hồ lên nuôi mật độ cao, tuy nhiên do ao liền ao, bờ liền bờ giữa các hộ nuôi với nhau thì việc nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ từ 100 con/m2 trở lên sẽ gặp trở ngại như: tôm chậm lớn, kích cỡ không đồng đều đến khi thu hoạch, dịch bệnh dễ xảy ra... 
Với các ao hồ được đầu tư tốt, khu nuôi riêng biệt, sau mỗi vụ nuôi ngoài việc cải tạo tốt ao nuôi còn phải sên vét đường cấp nước và đường xả thoát nước. 
Một điều tưởng chừng như bình thường nhưng rất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng là luôn làm sạch đáy ao. Khi nuôi tôm sú, người nuôi có thể xi phông đáy theo định kỳ. Nhưng khi nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao, mỗi tuần (thậm chí mỗi ngày khi tôm lớn) người nuôi phải xả cặn bã đáy ao tại các vị trí thu gom hoặc bơm hút cặn sang các ao trữ để xử lý.
Hệ thống ao nuôi là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại khi nâng mật độ nuôi cao. Việc nâng cấp ao hồ từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao cũng cần phải chú trọng về độ sâu của mực nước ao nuôi. Đây cũng được xem như là ưu tiên số một khi cải tạo ao hồ. Đối với các ao nuôi trải bạt toàn bộ đáy ao, độ sâu mực nước thích hợp  cho nuôi mật độ cao là 1,5-2m.
Ngược lại, với các ao nổi, vùng thấp triều thường có độ sâu mực nước thấp hơn (0,8-1,2m) sẽ là thách thức không nhỏ khi nuôi mật độ trên 100 con/m2.
Nhiều người nuôi đã đầu tư những hệ thống ao hồ thực sự bài bản như: làm lưới nhà lầu tạo điều kiện cho tôm đeo bám, hệ thống oxy đáy, hệ thống quạt, phủ lưới che chim cò toàn bộ ao nuôi.
Việc theo dõi nhiệt độ, pH, độ kiềm, độc tố…cũng được người nuôi chú trọng.
Nhắm đến kết quả là tỉ lệ sống cao, kích cỡ tôm đồng đều, ít bệnh, thời gian thu hoạch ngắn, năng suất cao khi nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao từ 150-200 con/m2 trên hệ thống ao nuôi tôm sú trước đây, Việt Linh khuyến nghị một số vấn đề kỹ thuật như sau:
- Ao nuôi nên trải bạt toàn bộ hoặc phủ bạt bờ ao.
- Bảo đảm mực nước ao nuôi từ 1,5-2m.
- Khu vực nuôi có nguồn nước dồi dào
- Có ao trữ, ao lắng và hệ thống cấp thoát nước đáp ứng yêu cầu xả mùn bã đáy ao (xi phông đáy) mỗi ngày. 
- Có hệ thống oxy đáy; hệ thống quạt nước tạo được các khu vực gom mùn bã đáy ao. Bảo đảm từ tháng thứ 2, thời gian quạt nước 24g/24g.
- Nếu không thỏa mãn các yêu cầu trên, nên nuôi dạng bán công nghiệp <100 con/m2 sẽ hiệu quả hơn.
- Về con giống: Chỉ nuôi mật độ cao khi chọn được con giống sạch bệnh.
- Trong quá trình nuôi, các biểu hiện của ao nuôi không dễ nhận biết nên đòi hỏi người nuôi phải bám sát để phát hiện và xử lý kịp thời.

Thí nghiệm nuôi sản lượng cao tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) trong ao nước ngọt



 Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) đã được đưa vào nuôi thử nghiệm trong ao nước ngọt trong thời gian từ tháng 6 - 9/2001 tại trại nuôi cá chình ở thị trấn Bạch Ðường, khu Hàn Giang, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Dưới đây là kỹ thuật và các kết quả nghiên cứu nuôi thử nghiệm chúng tôi giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
1. Ðiều kiện ao và nguồn nước
Chọn 6 ao, bờ gạch nền, đáy bùn cát, giữa ao có chỗ đáy trũng thoát gọi là hõm thoát bẩn, dùng ống ngầm dẫn tới mương thoát nước bên ngoài ao, bốn xung quanh ao nghiêng về phía hõm thoát bẩn để tiện thoát bẩn, mỗi ao nuôi diện tích là 0,05 hm2ưư, ao sâu 1,4m, ở cửa cấp nước bố trí lưới lọc 80 mắt, phòng địch hại tôm vào ao. Mỗi ao phải chuẩn bị hai máy sục khí 0,75kw.
Làm sạch ao bằng cách dùng vôi sống 3.000kg/hm2(hm = 100m) hoà với nước rải khắp ao để tiêu độc, giết chết các loài cá tạp dữ và những sinh vật địch hại khác, sau đó phơi nắng nửa tháng rồi cho nước vào ao ở mức 60 cm, giữ độ mặn nước khoảng 10/00 .
2. Ðiều tiết chất nước, tạo thức ăn cơ sở
Bón phân toàn ao với nitơrat amônium (NH4NO3 19,5 kg/hm2, supephốtphát 9 kg/hm2, hai ngày làm một lần, sau đó bón đuổi phân. Sau 10 ngày, màu nước trở thành màu vàng chanh, độ chiếu sáng 25 35 cm.
3. Chuẩn bị giống
Trước 20 ngày thả giống, đặt tôm giống vào nuớc ao của trại nuôi vỗ giống có độ mặn khoảng 10/00, yêu cầu trước khi đưa giống vào khoảng 10 ngày từng bước làm ngọt hoá, giữ độ mặn không thay đổi. Thời gian ngọt hoá, thân tôm khoẻ, nhanh nhẹn, không bệnh, không bị tổn thương bên ngoài.
4. Thả giống
Giống tôm được ngọt hoá bước đầu chứa trong túi nilông bơm oxy và để ở trong thùng xốp hình chữ nhật, sau khi chở đến trại, trước khi thả nhẹ cả túi vào trong ao nửa giờ đồng hồ, để thích ứng với nhiệt độ nước rồi mới mở túi. Trước khi thả tôm vào ao, cho tôm tắm 10 phút trong dung dịch iốt 20 mg/l, để riêng 200 con cho vào túi lưới sợi nilông 80 mắt để tiện theo dõi tình hình sinh trưởng của tôm.
Tình hình thả giống cụ thể như sau:
Nhóm tổSố liệu aoDiện tích (hm2)Giống thả
Số lượng thực thả (con)Mật độ (vạn con/ hm2)
I10.05480
I20.05480
II30.05480
II40.05480
III50.05480
III60.05480

5. Sự quản lý hàng ngày
5.1. Khống chế chất nước
Trong tuần đầu thả giống phải giữ mực nước ao khoảng 60 cm, trong vòng ngày đầu giữ độ mặn của nước ao ổn định, sau đó cấp thêm nước dần dần từng bước để làm ngọt hoá. Ðồng thời theo độ lớn của tôm, tăng nhiệt độ, từng bước cấp thêm nước cho mức nước cao 1,2 m. Sau 50 ngày, mỗi ngày thay nước từ 5 20 cm cho đến khi thu hoạch, lượng nước thay hằng ngày theo nguyên tắc giữ nước ổn định ở màu vàng chanh hoặc màu nâu nhạt, độ chiếu sáng là 25 30 cm, cứ 15 ngày cho một lần vôi sống 20 mg/l để ổn định độ pH và bổ sung canxi, nhiệt độ nước 21 - 330C, pH = 7,4 ~ 8,6, oxy hoà tan 5 mg/l, amônium - nitơ < 0,50 mg/l.
5.2. Cho ăn
Trong 20 ngày thả giống cần chú ý bồi dưỡng nước, sinh vật phù du trong ao tương đối phong phú thì không phải cho ăn, chỉ bổ sung một số luân trùng, thịt vẹm Sau 20 ngày cho tôm ăn thức ăn tổng hợp, mỗi ao bố trí hai sàn thức ăn bằng lưới nilông 80 x 80 cm để tiện kiểm tra tình hình tôm ăn và sinh trưởng của chúng, thức ăn tổng hợp mỗi ngày cho vào lúc 6.00 giờ, 17.00 giờ, 22.00 giờ. Năm ngày đầu rải đều thức ăn toàn ao, những ngày sau cho ăn ra bốn xung quanh ao. Lượng thức ăn tăng giảm tuỳ theo khả năng ăn của tôm và tình hình thay đổi của môi trường nước. Theo dõi thời gian ăn ở 3 thời điểm : đầu, giữa và cuối. Cứ vào khoảng nửa tháng cho dùng loại pôlyvitamin 30/00 - 50/00 và bột xương trong 3 ngày, và ở mặt ngoài của viên thức ăn tẩm một lớp dầu đậu tương tương hoặc dầu lạc để phòng thuốc bị hoà tan.
5.3. Kiểm tra thường xuyên
Hằng ngày, sáng, trưa, chiều phải đi tuần ao một lần, định kỳ kiểm tra độ mặn của nước ao, oxy hoà tan, chỉ số pH và làm tốt việc ghi chép quản lý hàng ngày, cứ 15 ngày kiểm tra chiều dài tôm, cân nặng của tôm một lần, phát hiện những đột biến để kịp thời xử lý. Nếu phát hiện nổi đầu phải lập tức thay nước mới hoặc chạy máy tăng oxy. Cần kiểm tra túi lưới lọc ở cửa cấp nước thường xuyên để tránh bị rách, đề phòng cá tạp vào ao. Trong 35 ngày nuôi lưu lý tăng cường lượng oxy trong nước đầy đủ ( 5 mg/l), nhất là trong những ngày râm trời, thời tiết oi bức, càng phải kéo dài thời gian chạy máy sục khí để phòng tránh tôm nổi đầu.
5.4. Phòng trừ bệnh
Theo dõi nước hằng ngày, kiểm tra tình hình hoạt động và sức khoẻ của tôm, cứ mỗi 6 10 ngày rải vôi sống 15 20 mg/l, clorin giàu 0,2 mg/l, clorin điôxit 0,3 0,8 mg/l, thuốc sát trùng 0,8 x 10 mg/l, iốt 0.5 x 10 1,0 mg/l để tiêu độc
6. Kết quả thí nghiệm
Giống tôm thả có chiều dài bình quân 0,8 cm, nuôi sau 135 ngày thu được hiệu quả tương đối tốt, sản lượng từ 7.200 11.034 kg/hm2 tỷ lệ sống 63 80%, quy cách thương phẩm 58 70 con/kg, lợi nhuận 3.840 7.724 vạn tệ/hm2, tỷ lệ đầu vào đầu ra là 1 : 1,50 á1: 1,78. Xem bảng dưới đây:

Nhóm tổSố liệu aoLượng thức ăn (kg)Ðầu vào (tệ)Kết quảLợi nhuận (vạn tệ/hm2)Tỷ lệ đầu vào, đầu ra
Tổng trọng lượngQuy cách (con/kg)Sản lượng (kg/hm2)Giá trị sản lượng (tệ)
I
I
II
II
III
III
1
2
3
4
5
6
783,4
734,6
797,1
715,2
582,4
547,2
4.965
4.713
4.567
4.741
4.060
3.840
551,70
506,65
471,00
480,00
388,25
360,00
58
60
62
60
68
70
11.034
10.133
9.419
9.600
7.765
7.200
8.827
8.106
7.536
7.680
6.212
5.760
7,7240
6,7860
5,9380
5,8780
4,3040
3,8400
1 : 1,78
1 : 1,72
1 : 1,65
1 : 1,62
1 : 1,53
1 : 1,50

7. Những điểm cần lưu ý
7.1. Nuôi luyện ngọt hoá giống
Tôm thẻ chân trắng là loại tôm gốc ở Nam Mỹ chịu độ mặn trong một biên độ rộng, muốn cho nó tồn tại và sinh trưởng trong nước thuần ngọt thì giống tôm thả nuôi phải nuôi luyện ngọt hoá một cách khoa học, đó là mấu chốt của việc nuôi chúng trong nước ngọt. Cho dù giống tôm đã được ngọt hoá bước đầu ở trại giống, sau khi thả vào ao vẫn phải luyện ngọt hoá dần dần. Nồng độ tương đối của nước ao nuôi ở trại giống ngọt hoá là khoảng 10/00. Trước khi thả giống vào ao, nhiệt độ nước chênh lệch không quá 20C. Trong ngày đầu giữ cho mật độ nước ao không thay đổi, để cho giống tôm có quá trình thích ứng dần, có thể bảo đảm tỷ lệ sống.
7.2. Chất nước
Do thí nghiệm này dùng nước sông chất lượng không được tốt nên quá trình nuôi có ô nhiễm một phần, nước nuôi giàu dinh dưỡng hoá. Trong thí nghiệm nuôi, dùng vi khuẩn quang hợp để cải thiện chất nước, hiệu quả rõ rệt (khoảng 10 ngày thả một lần), lượng dùng là 2 6 mg/l để giữ cho chất nước ổn định, nhưng không được dùng đồng thời với vôi sống vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt. Lưu ý khi thời tiết liên tục oi bức, âm u và mưa, hiệu quả sử dụng không tốt, tránh dùng.
7.3. Cho ăn
Ao nuôi phải có đài quan sát cho ăn, và phải căn cứ vào thời tiết, chất nước và tình hình hoạt động của tôm mà cho ăn với lượng thức ăn thích hợp, sao cho không có thức ăn thừa. Trong thời kỳ sinh trưởng mạnh mẽ, tốt nhất cho ăn thêm loại thức ăn tươi như ốc, hến đã đập nát, cá tạp
7.4. Phòng trị bệnh và loại bỏ địch hại
Phải hết sức coi trọng việc phòng trị bệnh hại, thường dự phòng định kỳ. Khi mua giống phải chọn mua giống khoẻ mạnh không có bệnh tao la (TSV) và bệnh đốm trắng. Nuôi trong nước ngọt tránh thay nước mang theo ký sinh trùng trung gian, phòng ngừa bệnh có tính bạo phát lan truyền qua nguồn nước, định kỳ tiêu độc nước bằng cách dùng thuốc thức ăn, do đó toàn bộ quá trình thí nghiệm nuôi không phát sinh bệnh hại nghiêm trọng. Nuôi sau 40 - 50 ngày, nếu trong ao quá nhiều sinh vật địch hại như cá vược phải dùng khô hạt chè 10 - 15 mg/l tiêu diệt.

Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng nguyên chủng



Theo đà phát triển của nghề nuôi tôm chân trắng, diện tích, sản lượng, hiệu quả nuôi tăng khá nhanh, nhưng đã có hiện tượng chất lượng tôm giống thoái hoá nghiêm trọng, tốc độ lớn của tôm giảm nhiều, đặc biệt là tôm lớn không đều trong đầm tôm nuôi.
Ðể giải quyết tình trạng này, đưa nghề nuôi tôm chân trắng phát triển theo hướng lành mạnh, nhanh chóng và bền vững. Năm 2001 Trung Quốc đã nhập nội giống tôm he chân trắng nguyên chủng về nuôi và cho kết quả tương đối khá.
I. Kỹ thuật nuôi vỗ tôm chân trắng bố mẹ
1. Tháng 2-4/2001 nhập 4 đợt tổng số 500 đôi tôm nguyên chủng sạch bệnh đã được khử trùng từ Hawai (Mỹ) về nuôi ở 2 bể xây hình chữ nhật. Diện tích mỗi bể 50m2, mức nước 70cm, nhốt tôm đực, tôm cái riêng. 
Nguồn nước lấy từ nước giếng cát mặn lắng lọc sạch, độ mặn 28-32 pH 7,8 - 8,8 và đưa vào bể muối. Ðược ít ngày tôm hồi phục sức khoẻ và ăn mồi bình thường thì có thể dùng kẹp nóng cắt cuống mắt đơn của tôm mẹ.  
2. Thức ăn và cách cho ăn 
Chủ yếu là rươi sống, thịt hầu tươi, thịt bạch tuộc tươi. Chỉ khi thiếu thức ăn tươi sống mới dùng thêm thức ăn công nghiệp. Ngày cho ăn 4 lần trở lên theo nguyên tắc lượng ít nhiều lần để tôm ăn no đủ sức phát triển buồng trứng chóng thành thục. Lượng cho ăn mỗi ngày từ 15 - 18% thể trọng tôm trong bể.
3. Hút nước và thay nước
Ðể đảm bảo môi trường luôn trong sạch, đủ ôxy, tôm ăn nhiều, phát triển tốt và không sinh bệnh. Ðây là việc làm hàng ngày, lượng nước thay 80% hoặc hơn.
4. Khống chế nhiệt độ ổn định
Ðầu vụ nuôi nhiệt độ ngoài trời còn thấp nên cần nâng nhiệt nước tới mức ổn định 29oC. Chú ý nhiệt độ nước ở bể chứa nước (để thay nước cho bể nuôi) cũng phải khống chế ngang với ở bể nuôi rồi mới đưa vào bể.
5. Chọn tôm cái thành thục
Tôm cái sau khi cắt cuống mắt, nuôi vỗ tích cực khoảng 10 ngày trở lên thì lần lượt thành thục.
Hằng ngày vào khoảng 10 giờ sáng, sau khi hút cặn thay nước xong, chọn những con cái đã thành thục thả vào bể tôm đực để cho chúng tự giao phối, khoảng 4 giờ chiều thắp đèn chiếu sáng bể tôm để kích thích nâng cao tỉ lệ tôm giao vĩ.
6. Bắt tôm cái sau khi giao phối
Mỗi buổi tối từ 8 đến 11 giờ bắt tôm cái đã giao phối đưa vào bể tôm đẻ. Mật độ : 4 - 5 con/m2 bể.
Chú ý : - Khi tôm đang đẻ sục khí nhỏ để tăng tỉ lệ nở, tránh sục mạnh làm vỡ trứng.
- Kịp thời chuyển tôm cái sang bể khác, khi thấy chúng đã đẻ xong.
- Từ 30 phút đến 1 giờ khuấy đảo trứng nhẹ 1 lần để trứng khỏi bị đọng ở đáy bể thiếu ôxy sẽ chết nhiều.
7. Kết quả
Từ 10/3 có một số tôm cái thành thục đẻ trứng, đến 5/8 tất cả 425 con tôm cái đẻ trứng, tỉ lệ đẻ đạt 85%, tỷ lệ giao vĩ đạt 75%, tỷ lệ nở 82,03%. Tổng số ấu trùng Nauplius thu được là 586,71 triệu con.
Trong khi lưu giữ giống nguyên chủng cần chú ý tạo điều kiện cho tôm thích nghi dần với môi trường ở địa phương, nếu không tôm dễ bị bệnh.
II. Ương ấu trùng tôm
Bể ương tôm giống : 100m2, cao 1,4m.
Nguồn nước cũng lấy từ giếng cát mặn đã lắng lọc sạch, độ mặn 28 - 32; pH 8,0 - 8,3.
Ðưa ấu trùng Nauplius vào ương với mật độ 2 triệu con/bể, khống chế nhiệt độ nước ở bể ương 30oC.
Ngày cho ăn 6 lần. mấy ngày đầu cho ăn mảnh tôm (bột tôm), BP (thức ăn hạt nhỏ) và bột tảo. Sang giai đoạn Zoea cho ăn 1 lượng nhất định thức ăn sinh vật (cốt điền tảo). Từ Mysis tới cuối giai đoạn tôm bột cho ăn chủ yếu là bột tôm kết hợp với một ít artemia. Từ P3 trở đi cách 2 ngày thay 1 ít nước biển sạch mới vào bể ương 1 lần, lượng nước thay tăng dần do ấu trùng ngày càng lớn
Trong giai đoạn M1 và M2, đưa thuốc kháng sinh vào bể đề phòng bệnh là rất cần thiết (dùng Furazolidon và oxytetracycline).
Kết quả ương từ ngày 5/6 đến 8/7. Có 2 ao ương, mỗi ao thả 2 triệu Nauplius. Ao thứ nhất thu được 95 vạn tôm bột Postlarvae (P) tỷ lệ sống 47,5%. Ao thứ hai thu được 76 vạn tôm bột, tỷ lệ sống 38%.
Tỷ lệ tôm bột sống thấp ngoài nguyên nhân và chất nước còn do chưa cung cấp đủ thức ăn phù hợp trong giai đoạn M1 và M2 là giác mao tảo và kim tảo, nên phải cho ăn loại tảo kém chất lượng hơn là cốt điều tảo.
III. Nuôi tôm thịt
Diện tích ao: Ao số 1 : 2.000m2 - Ao số 2 : 9.000m2
Các ao đều lắp máy quạt nước. Nguồn nước là nước biển tự nhiên, độ mặn 12 - 20, pH = 7,8 - 8,2. Ao được tẩy dọn sạch, phơi nắng, khử trùng trước khi thả giống, cho nước vào sâu 1,2m và bón phân gây mầu để tạo sẵn thức ăn tự nhiên ban đầu.
Khi độ trong nước ao 40 - 50cm thì thả tôm bột vào ao.
Ao số 1 thả 30 vạn con.
Ao số 2 thả 33 vạn con.
Trong 5 ngày đầu, mỗi ngày cho ăn 1 lần, từ ngày thứ 6 đến thứ 10, mỗi ngày cho ăn 2 lần, sau đó ngày cho ăn 4 lần. Từ tháng thứ 2 trở đi mỗi ngày cho thêm 5 - 10cm nước ngọt. Suốt quá trình nuôi không cần cho thêm nước mặn. Cuối giai đoạn nuôi tôm thịt rắc vôi bột 2 - 3 lần/tháng, để cải thiện chất nước và chất đáy. Ngoài ra nên định kỳ bón vi khuẩn quang hợp.
Kết quả:
Ao số 1: Ngày 4/7 thả 30 vạn tôm bột, ngày 4/10 thu hoạch (sau 92 ngày nuôi), sản lượng tôm thịt 3.413 kg, qui ra năng suất 17 tấn/ha, con lớn nhất dài 15,6cm, nặng 18,2g, cỡ trung bình dài 12,2cm nặng 14,8g. Tỉ lệ sống 76,87% lượng thức ăn sử dụng 3.800 kg, hệ số thức ăn 1,11.
Ao số 2: Ngày 20/4 thả 10 vạn tôm bột, ngày 23/4 thả tiếp 23 vạn con. Ngày 15/7 thu hoạch. Qua 85 - 93 ngày nuôi tôm thịt đạt 3.675 kg, năng suất bình quân 282,69 kg/660m2. Con lớn nhất dài 11,8cm nặng 21g; bình quân dài 10,3cm, nặng 14,2g, tỷ lệ sống 78,43%, lượng thức ăn sử dụng 3.400 kg, hệ số thức ăn 0,93.
Nhìn chung sử dụng tôm giống sản xuất từ tôm bố mẹ nguyên chủng mới nhập để nuôi tôm thịt tốt hơn hẳn tôm giống từ các nguồn khác ở địa phương. ưu thế là : tôm thịt đều cỡ hơn, thân hình bóng đẹp, thịt chắc hơn, tốc độ lớn nhanh hơn. Tuy vậy, tôm bột chưa quen thích nghi điều kiện môi trường ở địa phương nên sau khi đưa vào ao nuôi tôm thịt mới 1 tuần đã thấy một số con bị bệnh. Vì vậy trong khi lưu giữ giống nguyên chủng sau này cần chú ý tới khâu tạo điều kiện cho tôm thích nghi dần với môi trường ở địa phương.

Kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm chân trắng



(P. vannamei)

Bí quyết để nuôi tôm P.vannamei theo phương pháp sạch bệnh năng suất cao gồm 3 yếu tố:
  • Nuôi vỗ tích cực;
  • Nâng cao khả năng miễn dịch của tôm;
  • Rút ngắn thời gian nuôi.
Ba nguyên tắc đó được thể hiện trong quá trình nuôi là :
  • Giai đoạn mới thả phải cho con giống ăn đầy đủ kể cả thức ăn công nghiệp và thức ăn cao đạm tươi sống như hầu, hà, cá tươi xay nhuyễn để có giống khoẻ , giống chóng lớn.
  • Giai đoạn nuôi tôm trưởng thành phải cho ăn nhiều hơn vì tôm chân trắng là loại tôm ăn khoẻ nên phải baỏ đảm đủ thức ăn cho tôm. Tỉ lệ cho ăn hằng ngày nên chú ý nhiều về buổi tối chiếm 70% ban ngày 30%. Thức ăn phải cho thêm thuốc kháng sinh phòng bệnh cho tôm để nâng cao khả năng phòng bệnh và khả năng miễn dịch của tôm.
  • Giai đoạn cuối phải vỗ tích cực, cho ăn đầy đủ các loại thức ăn tổng hợp có bổ sung thêm các loại chế phẩm sinh học kích thích tôm lột xác chóng lớn rút ngắn thời gian nuôi.
Với các biện pháp trên, thời gian nuôi ở các ao thông thường là 60 ngày, ở ao nuôi công nghiệp mật độ cao khoảng 80 ngày có thể thu hoạch, cỡ tôm 50 con/kg.
1. Mật độ con giống
Ao nuôi tôm thịt phải tẩy dọn sạch sẽ, sát trùng kỹ; bón phân gây màu nước. Khi độ pH > 7- 8 mới được thả tôm giống. Chọn ngày có nhiệt độ nước trên 22oC; độ mặn giống như độ mặn ao ương trung gian; nước sâu trên 80 cm mới thả tôm giống.
Trước hết thả một số tôm giống vào giai đặt trong ao nuôi một ngày để thử nước trước.
Mật độ thả : Tôm P.vannamei có tỷ lệ sống cao nên mật độ phụ thuộc vào độ sâu của nước ao và thiết bị nuôi.
Ao sâu trên dưới 1m, mật độ thường là 12 con/m2; ao sâu trên 1,2m mật độ từ 12 con - 18 con/m2; ao cao sản khép kín mật độ là 50 - 65 con/m2.
Tôm giống tốt nhất là tôm cho đẻ cùng một đợt và thả một lần đủ số lượng nuôi.
Nơi thả giống thường là nơi sâu nhất của ao và đầu ngọn gió.
Khi tôm giống được vận chuyển đến ao nuôi để nguyên cả túi nilông đựng tôm thả xuống ao một thời gian để cho nhiệt độ trong túi và nhiệt độ nước ao cân bằng mới nhẹ nhàng mở túi để tôm tự bơi lội ra ao.
2. Quản lý chăm sóc
2.1 Những yêu cầu về chất lượng nước ao nuôi tôm P.vanamei :
- Nhiệt độ nước từ 20 - 30oC;
- Ðộ mặn từ 5 - 30 tốt nhất là 10 - 25 ;
- pH 8,0 +/- 0,3 dưới 7 không thích hợp;
- Ôxy hoà tan 4 mg/l, không dưới 2 mg/l;
- BOD 5 - 30 mg/l;
- COD < 6mg/l;
- Ðộ trong 30 +/- 5 cm;
- Muối hoà như sau : PO4- P -= 0,1 - 0,3 mg/l; SiO4 - S = 2mg/l; NH4 - N = 0,4 mg/l trở lên; NH3 < 0,1 mg/l. tỷ lệ N/P lớn thì tảo khuê nhiều; H2S <0,03 mg/l; Nếu pH thấp H2S dễ làm cho tôm bị ngộ độc.
Vị trí lấy mẫu để xác định các chỉ tiêu thường là gần đáy ao nơi cho tôm ăn. Ðiểm lấy mẫu chỉ tiêu pH cách mặt nước 0,5m. Ðiểm lấy mẫu đo nhiệt độ ở tầng giữa của ao. Sau khi trời mưa to hoặc bão xong phải đo cả ở tầng mặt và tầng đáy.
2.2 Bảo đảm lượng ôxy hoà tan trong nước :
- Bảo đảm lượng ôxy hoà tan trong nước bằng cách sử dụng máy quạt nước;
- Từ ngày bắt đầu thả giống đến ngày thứ 20 chỉ phải quạt nước vào ban đêm, những ngày trời râm và khi bổ sung nước ngọt mỗi ngày 2 - 4 tiếng;
- Từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 40, mỗi đêm tăng lên 4 - 6 tiếng;
- Từ ngày thứ 40 trở đi quạt cả ban ngày và ban đêm, thời gian mỗi lần 4 - 6 tiếng;
- Nhu cầu máy quạt nước cho ao nuôi :
+ Thường ao có độ sâu 1,5m diện tích 5000 m2 phải dùng 4 - 6 máy;
+ Ao sâu 1,5 m trở lên cần 6 - 8 máy, máy đặt cách bờ 4 - 5m.
- Nếu nước ao bị xấu đi, sinh vật phù du chết nhiều làm màu nước thay đổi hoặc tôm bị bệnh phải dùng thuốc chữa bệnh thì phải mở máy liên tục cả ngày trừ những lúc cho tôm ăn.
2.3 Thay nước, bổ sung nước
Nói chung các ao nuôi năng suất cao phần lớn thực hiện mô hình ít thay nước. Nhưng trường hợp sau đây phải chú ý cần thay nước (tốt nhất là nước ngọt) :
- Màu nước đột nhiên biến thành trong, hoặc biến đen, biến trắng hay các màu khác;
- pH dưới 7,5 hoặc trên 9; biến động ngày đêm trên 0,5;
- Sau khi chạy máy quạt nước mặt nước xuất hiện nhiều bọt không tan; vật lơ lửng ở trong nước nhiều lên; H2S, NH3, COD vượt quá chỉ tiêu cho phép.
- Ðộ trong trên 80cm hoặc quá đục dưới 30cm.
Lượng nước thay mỗi ngày không quá 30%. Trong một giờ không quá 10% lượng nước cần thay (nếu muốn tăng lượng nước trong một giờ lên thì trước đó phải tháo một lượng nước trong ao, sau đó vừa thêm nước vừa tháo nước đến lúc đạt độ cao cần thiết thì thôi). Khi tôm lớn đạt cỡ 8 cm thì thêm nước ngọt để hạ độ mặn xuống 10 .
Việc thêm nước ngọt có ý nghĩa rất lớn cho việc phòng bệnh cho tôm vì đa số các loại vi sinh, ký sinh và một số virus gây bệnh cho tôm sống ở nước mặn đều bị chết khi gặp nước ngọt.
2.4 Biện pháp xử lý H2S và NH4
ở ao nuôi tôm, hàm lượng NH3 không được quá 0,5 mg/l; H2S không được quá 0,1 mg/l; nếu quá lượng trên tôm sẽ chết hàng loạt.
Biện pháp khống chế H2S và NH3 như sau :
+ Mật độ tôm giống phải hợp lý, thức ăn cho tôm ăn hằng ngày phải hợp lý; sử dụng vi khuẩn quang hợp bón xuống ao để giảm thiểu ô nhiễm đáy ao;
+ Chú ý cải tạo đáy ao bằng cách giữa vụ nuôi bón thêm vôi CaCo3 hoặc bột đá để ôxy hoá các chất lắng đọng ở đáy ao; lượng vôi dùng cho mỗi m3 là 30 - 40g;
+ Dùng thức ăn nuôi tôm chất lượng cao, giảm thiểu ô nhiễm chất nước, ô nhiễm đáy ao.
3. Quản lý thức ăn
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của việc nuôi tôm là thức ăn. Thức ăn tốt chất lượng cao là thức ăn chế biến đúng thành phần, đủ chất, đủ lượng, quá trình phối chế khoa học, vệ sinh, hệ số thức ăn thấp.
Thức ăn chất lượng tốt nhưng phải có cách cho ăn khoa học, hợp lý, phù hợp với giai đoạn phát triển của tôm, phù hợp với trạng thái sinh hoạt của tôm, không thiếu, không thừa vừa thúc đẩy tôm lớn nhanh vừa bảo vệ được môi trường ao nuôi, không gây ô nhiễm, không gây lãng phí để đội giá thành của tôm lên cao là không kinh tế. Tính toán thức ăn cho tôm hợp lý cần phải nắm vững 5 điểm sau :
- Số lượng tôm có trong ao;
- Kích cỡ của tôm lớn/bé;
- Tình trạng sức khoẻ của tôm và tình hình lột xác của tôm;
- Chất lượng nước ao nuôi;
- Tình hình dùng thuốc cho tôm trong thời gian qua.
Số lượng thức ăn có quan hệ đến chiều dài tôm như sau :
+ Tôm có chiều dài 1 - 2cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 150 - 200% trọng lượng tôm;
+ Tôm có chiều dài 3cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 100% trọng lượng tôm;
+ Tôm có chiều dài 4cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 50% trọng lượng tôm;
+ Tôm có chiều dài 5cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 32% trọng lượng tôm.
4. Những điều cần chú ý khi cho tôm ăn
Từ nguyên tắc lượng ít, lần nhiều cần phải chú ý không cho tôm ăn khi :
  • Thức ăn kém phẩm chất, bị mốc hoặc bị thối ;
  • Nước ao bị ô nhiễm nặng;
  • Trời đang mưa to, gió lớn;
  • Tôm đang nổi đầu;
  • Tôm đang lột xác.
Cho tôm ăn ít khi : Giai đoạn tôm còn nhỏ.
Cho tôm ăn nhiều khi : - Giai đoạn tôm bắt đầu trưởng thành đến cuối kỳ nuôi :
- Trời nắng ấm, gió nhẹ;
- Tôm khoẻ chất nước tốt.
Thời gian cho ăn 5 đến 6 lần trong ngày, tỉ lệ thức ăn trong ngày phân bổ như sau :
+ Từ 18h00 đến 19h00 cho ăn 35%;
+ Từ 23h00 đến 00h00 cho ăn 15%;
+ Từ 4h00 đến 5h00 cho ăn 25%;
+ Từ 10h00 đến 11h00 cho ăn 15%;
+ Từ 14h00 đến 15h00 cho ăn 10%.
Nhìn chung, số lượng thức ăn chủ yếu bón về ban đêm chiếm 70 - 80% ban ngày chỉ chiếm 20 - 30%.
5. Cách xác định thức ăn thừa thiếu
Mỗi ao có diện tích 1.500m2, dùng một vó kiểm tra thức ăn để kiểm tra. Vó đặt cách bờ ao 3 - 4m nơi gần máy quạt nước là nơi có nhiều tôm đến ăn. Thức ăn cho vào vó khoảng 1- 2% mỗi lần cho ăn. Thời gian kiểm tra thức ăn trong vó phụ thuộc vào cỡ tôm.
Tôm nuôi trong tháng đầu, có chiều dài khoảng 5cm. Thời gian kiểm tra 3 giờ một lần. Tôm nuôi trong khoảng 40- 50 ngày có chiều dài trên 8cm. Thời gian kiểm tra 2- 2,5 giờ một lần. Tôm nuôi trong khoảng 60 ngày, có chiều dài trên 9cm. Thời gian kiểm tra 1,5 giờ một lần, đến hết thời gian kiểm tra nói trên, thức ăn trong vó vừa hết là đủ.
6. Cách xác định tỷ lệ sống của tôm
- Thả tôm giống vào giai đặt trong ao nuôi có mật độ giống như tôm nuôi trong ao, sau mười ngày xác định một lần; tỷ lệ sống trong gia nói chung kém ngoài ao 5- 10%;
- Dùng chài quăng nhiều lần ở nhiều điểm khác nhau trong ao để tính ra tỷ lệ sống của tôm trong ao theo công thức :
Số tôm đánh được bình quân trong một chài (con)
Tỉ lệ sống =
- - - - - - - - -- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -  x Diện tích
Diện tích chài (m2) ao (m2) K

K là hệ số kinh nghiệm nếu :
  • Nước sâu 1m, chiều dài của tôm 6- 7cm, hệ số K=1,4;
  • Nước sâu 1m, chiều dài của tôm 8- 9cm, hệ số K=1,2;
  • Nước sâu 1,2m, chiều dài của tôm 6- 7cm, hệ số K=1,5;
  • Nước sâu 1,2m, chiền dài của tôm 8- 9cm, hệ số K=1,3.
V.Q.NThông tin KHCN thuỷ sản số 4/2002

Thông tin về tôm thẻ chân trắng



(Penaeus vannamei)
... Thị trường Mỹ đang rất cần con tôm chân trắng, nhưng chúng ta lại đổ xô vào con tôm sú... (Diễn đàn và bình luận - SGGP 27/11/2001) 

Đặc điểm sinh học và sinh thái của tôm thẻ chân trắng
PHÂN LOÀI
Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei

PHÂN BỐ
Châu Mỹ La Tinh, Hawaii, hiện nay được nuôi ở rất nhiều nước trên thế giới như: Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam...
CẤU TẠO VÀ ĐIỀU KIỆN SINH THÁI
Cũng như các loài tôm cùng họ Penaeid, tôm chân trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng. Tôm nhỏ lúc thay vỏ cần vài giờ để vỏ cứng nhưng khi tôm đã lớn thì cần khoảng 1-2 ngày.
Tôm chân trắng không cần đồ ăn có lượng protein con như tôm sú, 35% protein được coi như là thích hợp hơn cả, trong đó đồ ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28 độ C, độ mặn khá cao (35 phần ngàn). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn loan quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Potlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây điều kiện môi trường rất khác biệt: đồ ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt độ cao hơn ... Sau 1 vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn chu kỳ.
Tôm chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tại Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đã đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.
Nếu nuôi tôm mẹ thì nên tạo nhiệt độ nước ít thay đổi (27 độ C), nước cần phải lọc bằng than nhằm mục đích loại bỏ tất cả những chất hữu cơ hòa tan trong nước. Tôm sinh đẻ nên chọn những con nặng ít nhất 40gr. Những tôm đực mà nơi bộ phận mang tinh trùng bị xám đen thì nên tránh.
Tài liệu tham khảo: 
1/ http://www.seafoodhandbook.com/shellfish/shell22.html

2/ "Cải tiến kĩ thật nuôi tôm tại Việt nam" (Vũ Thế Trụ - Nhà xuất bản Nông nghiệp - 2000)
Tôm chân trắng rất được giá tại thị trường Hoa Kỳ và các đặc tính sau đây:
- Người Hoa Kỳ thích loại tôm trắng hơn các loại đen, nâu, xanh ...
- Tôm chân trắng kháng bệnh mạnh hơn các loại tôm khác.
- Tôm chân trắng lớn nhanh hơn cả.
Tôm chân trắng chịu được sự thay đổi điều kiện môi trường hơn.
Cũng như các loài tôm cùng họ , tôm chân trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng. Tôm nhỏ lúc thay vỏ cần vài giờ để vỏ cứng nhưng khi tôm đã lớn thì cần khoảng 1-2 ngày.
Một điều chưa giải thích được là tôm chân trắng nuôi trong nước ao lớn mau (50%) hơn là nuôi trong nước giếng đã được khử trùng, có lẽ nhờ ảnh hưởng của cộng đồng vi sinh vật trong nước ao theo kết quả khảo cứu của Viện hải dương học Hawaii.
Tôm chân trắng không cần đồ ăn có lượng protein con như tôm sú, 35% protein được coi như là thích hợp hơn cả, trong đó đồ ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28 độ C, độ mặn khá cao (35 phần ngàn). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn loan quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Potlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây điều kiện môi trường rất khác biệt: đồ ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt độ cao hơn ... Sau 1 vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn chu kỳ.
Tôm chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tại Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đã đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.
Nếu nuôi tôm mẹ thì nên tạo nhiệt độ nước ít thay đổi (27 độ C), nước cần phải lọc bằng than nhằm mục đích loại bỏ tất cả những chất hữu cơ hòa tan trong nước. Tôm sinh đẻ nên chọn những con nặng ít nhất 40gr. Những tôm đực mà nơi bộ phận mang tinh trùng bị xám đen thì nên tránh.
Chuẩn bị ao hồ tôm ương cũng như tôm thịt: Đào ao, phơi nắng, bón vôi, bón phân thả tôm con ... 
Mật độ nuôi tôm chân trắng:
Tùy theo trình độ kỹ thuật và phương tiện, người ta ấn định mật độ, tại Hawaii mật độ cho năng suất cao hơn cả là 75con/m2. Cách nuôi giống như nuôi tôm sú
Năng suất tại viện Hải dương học Hawaii đã đạt tới 44 tấn/ha/năm và dựa vào các điều kiện được giữ liên tục trong suốt vụ như sau.
Oxygen hòa tan 8ppm
Đĩa Secchi 55cm
Nhiệt độ 28 C
pH 8
Thay nước hàng ngày: Để đảm bảo môi trường nước thật trong sạch, nước được thay đổi hàng ngày đều đặn. Những ngày đầu thay 10% lượng nước mỗi ngày, sau đó tăng dần tới 80% hay hơn nữa để đáp ứng với sự gia tăng đồ ăn cũng như trọng lượng tôm trong ao.

Các tài liệu khác:
1/ http://mexicanfood.about.com/library/weekly/aa050201a.htm
West Coast white shrimp (P. vannamei): Sometimes referred to as the white-leg shrimp, this species is found on the Pacific side of Central and South America, but are intensively farmed in Ecuador and Central America. This species accounts for a large volume of the white shrimp in the U.S. marketplace.

2/ http://www.nhandan.org.vn/english/20010709/bai-eco1.html
Bac Lieu farms white-leg shrimps
The Duyen Hai Company in Bac Lieu province was allowed to import one million white-leg shrimp fries from Taiwan for experimental breeding by the Ministry of Fisheries.
After farming for three months at a density of 14 shrimps per square metre, the company harvested nearly 11 tonnes of shrimps. The company’s report stated that the survival rate of these shrimps is 70%.
The success means new business opportunities for shrimp farmers in Bac Lieu and other provinces in the Mekong Delta since the price for export of each kilogram of white leg shrimp is between US $10 and US $30. The product is popular among customers in the United States and other countries.
The company is asking for permission from the ministry to import another 10 million shrimp fries for the next farming season and 900 male and female white leg shrimps for breeding.

3/ http://www.vietlinh.com.vn/forum/tl_khac.html
Tôm chân trắng là loài tôm thuộc họ tôm thẻ, có nguồn gốc và phát triển mạnh ở Mỹ và các nước nam Mỹ. Đài Loan là nước Châu Á đầu tiên du nhập và nuôi thành công làoi tôm này.
Hiện nay ngành nuôi tôm Việt Nam cũng đang có dầu hiệu rất khả quan về sản lượng thu được từ tôm chân trắng.
Tên Khoa học: Penaeus vannamei
Tên tiếng Anh: White leg shrimp
Đặc điểm: ít bị cảm nhiễm bệnh tất hơn tôm sú, chu kì nuôi ngắn ngày (so với tôm Sú), giá cả ổn định trên thế giới.

4/ http://www.seafoodhandbook.com/shellfish/shell22.html
Shrimp, Pacific white
Scientific names: Penaeus vannamei; P. stylirostris
Market name: Shrimp
Common names: White-leg, Mexican white, Pacific white, Ecuadoran white (vannamei); blue shrimp, steelies (stylirostris)
The Pacific White Shrimp Story
Pacific white shrimp are among the most widely cultivated shrimp in the world. This is due mainly to ease of cultivation and rapid growth rate; harvesting begins after 120 days.
The two warmwater species known as Pacific whites are Penaeus vannamei, found from Sonora, Mexico, to northern Peru, and P. stylirostris, which ranges from Baja California to Peru. Both are also harvested from the wild by trawlers, though the volume of farmed is considerably greater than trawl-caught supplies – especially vannamei from Ecuador. In the United States, Pacific whites are farmed in Texas and South Carolina.
Similar to Gulf white shrimp, both of these Pacific species can reach about 9 inches. IQF and block-frozen whole shrimp are becoming more popular as farmers look to pass processing costs on to end-users.
Quality of pond-raised Pacific white shrimp is normally high, owing to strict controls and the lack of at-sea time that accompanies shrimp harvested from the wild.
Product Profile
Pacific white shrimp is firm, sweet and mild. The stylirostris is a bit more salty than the vannamei species. Though it may be difficult to tell them from Gulf whites, if you look closely, you'll see that P. vannamei are creamy white, while Gulf whites are grayish-white. The stylirostris are often white with a greenish or bluish tint. Raw meat of both species is white but turns whitish pink when cooked.
Peeled shrimp are usually dipped in phosphates to minimize drip loss. It's a standard practice, as long as the product isn't oversoaked, and should be stated on the label. Thawed shrimp that feels "soapy" has been soaked too long and has absorbed excess water.
GLOBAL SUPPLY: 
Belize, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Honduras, Mexico, Nicaragua, Panama, Peru, United States
5/ http://www.nmfs.noaa.gov/sfweb/sk/saltonstallken/penaeus.htm
GRANT NUMBER: NA67FD0030 NMFS NUMBER: 95-SER-009
REPORT TITLE: Sustainable Aquaculture and Stock Enhancement for the Native White Shrimp, Penaeus setiferus
AUTHOR: Stephen Hopkins and David Whitaker
PUBLISH DATE: October 1, 1998
AVAILABLE FROM: National Marine Fisheries Service, Southeast Region, 9721 Executive Center Drive, St. Petersburg, Fl 33702. TELEPHONE: (727) 570-5324
ABSTRACT
The sustainable shrimp aquaculture technologydevelopment efforts were designed to reduce the potential for adverse impacts of shrimp aquaculture on the environment and wild shrimp stocks. The approach is to develop techniques for production of the native white shrimp, Penaeus setiferus, which will achieve growth and production rates comparable to the Pacific coast white shrimp, Penaeus vannamei. Penaeus vannamei has become the species of choice for commercial shrimp farmers in the United States due to its rapid growth on available feeds and the availability of high health supplies of postlarvae for stocking growout ponds. However, there are increasing problems with the health status of these seed and seed supply continues to constrain the industry. Another concern associated with the farming of the non-native Penaeus vannamei relates to the inherent potential for escapement. Some fear that the Pacific coast shrimp may become established along the Atlantic coast or that it will naturally hybridize with native shrimp. Both naturalization and hybridization could disrupt the coastal ecosystem. The mainstay of the shrimp fishery in South Carolina is white shrimp, Penaeus setiferus. White shrimp spawn in near-shore waters in the spring. The coastal marshes provide nursery habitat through the summer months and the large shrimp move out of the estuaries in the fall. A portion of the population remains in the deeper sections of the sounds and bays through the winter and become the spawning stock which begin the cycle anew the following spring. However, South Carolina is at the northern extreme of the range of this species and in an unusually cold winter these overwintering shrimp are killed by low water temperatures. The loss of these spawners results in reduced recruitment and a smaller than normal population of young-of-the-year. Because Penaeus setiferus is an important species with respect to commercial and recreational harvest, not to mention its role in the coastal ecosystem, anthropologic management measures which mitigate the loss of overwintering stock to low temperatures may have a far-reaching effect.