
Cá chép là một đối tượng cá nuôi truyền thống trong nhiều loại hình thủy vực nước ngọt. Ở giai đoạn cá hương, chúng bắt mồi ở tầng mặt và ăn động vật phù du là chính, ở giai đoạn cá giống và trưởng thành chúng chuyển sang sống dưới đáy và thức ăn chính là động vật đáy. Cá chép thường bị nhiễm ấu trùng sán lá (Centrocestus formosanus) và thích bào tử trùng (Myxobolus sp.) làm kênh nắp mang ảnh hưởng rất lớn đến việc hô hấp, thậm chí còn gây chết và được gọi là bệnh kênh mang của cá Chép (Kim Văn Vạn et al., 2012). Ban đầu ấu trùng sán nhiễm ở phần sụn của tơ mang làm chèn ép các tế bào ở mang và tăng sinh khối mang cá. Đối với thích bào tử trùng ký sinh ở mang do sợi thích ty, cắm vào tổ chức mang, hai mảnh vỏ tách ra, tế bào chất di chuyển, xâm nhập vào vào các tế bào mang cá lấy chất dinh dưỡng để sinh trưởng và phát triển. Quá trình sinh sản cứ tiếp tục, cho đến khi tạo ra được một số lượng lớn bào tử, thì hình thành bào nang bao xung quanh. Kích thước của bào nang có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Biện pháp phòng bệnh thông qua việc tiêu diệt ốc, vệ sinh và quản lý ao nuôi thường chưa mang lại hiệu quả hoàn toàn. Ấu trùng có đặc điểm khi ký sinh ở mang cá được bao bọc trong màng bao bọc, còn thích bào tử trùng lại nằm trong bọc kitin dày nên rất khó bị tiêu diệt bởi các loại hóa chất thông thường do có sự ngăn chặn thâm nhập các loại hóa chất này. Dùng thuốc Praziquantel cho cá ăn đã điều trị thành công bệnh kênh mang do ấu trùng sán lá (Kim Văn Vạn et al., 2012) và cũng bằng thuốc ESB3, Sulfadiazin đã điều trị thành công bệnh kênh mang do nhiễm Myxobolus sp. Tuy nhiên, Praziquantel thì không trị được bênh kênh mang do Myxobolus sp., ngược lại ESB3 và Sulfadiazin thì không điều trị được bệnh kênh mang do sán lá. Như vậy, nếu chẩn đoán nhầm tác nhân gây bệnh thì việc trị bệnh sẽ không mang lại hiệu quả.
1. Nhận biết tác nhân gây bệnh kênh mang ở cá chép thông qua chẩn đoán lâm sàng
Cá Chép bị bệnh kênh mang có biểu hiện bơi lờ đờ ở tầng mặt gần bờ không chỉ vào ngày thời tiết xấu mà thậm chí cả những ngày thời tiết tốt, không phản ứng với tiếng động. Khi quan sát cá thấy có hiện tượng nắp mang hở, không khép kín, có xác cá chết nổi lên mặt nước.
Đối với bệnh kênh mang cá Chép do ấu trùng sán C.formosanus, bệnh thường xảy ra ở cá chép hương trên 2 tuần tuổi đến giai đoạn cá Chép giống nhỏ (<10 g/con), mặc dù cá bị kênh mang nhưng trên mang không xuất hiện bọc mủ trắng mà chỉ sưng phần tơ mang, sụn mang, mang cá vẫn xuất hiện màu hồng tươi (Hình 1a).
Đối với cá chép bị kênh mang do thích bào tử trùng Myxobolus sp. Bệnh thường xảy ra ở cá chép giống từ cá giống nhỏ đến cá giống lớn (cỡ 5-50 g/con), trên mang cá xuất hiện các khối u màu trắng to bằng hạt tấm, hạt gạo thậm chí bằng hạt lạc (Hình 1b).

2. Chẩn đoán phân biệt bằng phương pháp soi ký sinh trùng dưới kính hiển vi
Mẫu nhớt mang cá được phết lên lam kính (có thể phết khối u màu trắng lên lam kính), soi dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 40; 100, 400 và 1000 X quan sát hình dạng, kích thước ký sinh trùng. Đối với ấu trùng sán láC. formosanus có hình trứng, giác miệng lớn hơn giác bụng, tuyến bài tiết hình chữ X hoặc hình chữ H (Michell, 2005; Vélez & cs., 1998; Schol & Salgado, 2000), chỉ cần soi dưới kính hiển vi ở độ phòng đại 40 và 100 X là có thể quan sát toàn bộ ấu trùng, ấu trùng thường nằm trong bọc và bọc này thường nằm trong sụn hoặc tơ mang gây chèn ép các tế bào tổ chức mang (Hình 2a). Đối với thích bào tử trùng Myxobolus sp. chúng có kích thước nhỏ hơn ấu trùng sán lá nên rất khó quan sát dưới kính hiển vi có độ phóng đại thấp cần soi trùng ở độ phóng đại 400X và thậm chí 1000 X (sử dụng vật kính dầu). Đặc điểm của thích bào tử trùng là trùng bào tử sợi được bảo vệ bằng 2 mảnh vỏ có kích thước, độ dày bằng nhau, do tế bào chất keo đặc lại mà tạo nên. Trong bào tử có cực nang và tế bào chất. Tùy theo giống loài khác nhau có số lượng cực nang từ 1-4 chiếc. Trong mỗi cực nang có 1 sợi thích bào xoắn lò so. Các cực nang thường tập trung ở đầu phía trước. Phần sau bào tử có tế bào chất gọi là tế bào mầm, trong tế bào chất có 2 nhân và không bào(Hình 2b).

Ngoài các phương pháp chẩn đoán tác nhân gây bệnh trên còn có thể ứng dụng phương pháp sinh học phân tử giải trình trình tự gen của tác nhân gây bệnh.
3. Chẩn đoán phân biệt tác nhân gây bệnh kênh mang cá Chép thông qua thuốc điều trị
Cá chép hương và cá chép giống bị bệnh kênh mang do ấu trùng sán lá C. formosanus có thể điều trị khỏi bệnh bằng thuốc Praziquantel hoặc Mebendazole bằng cách trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục 3-5 ngày, khi đó ấu trùng sán bị tiêu diệt, mang cá hồi phục cá khỏi bệnh hoàn toàn (Kim Văn Vạn & cs., 2012) (Hình 3).

Cá chép giống bị bệnh kênh mang do thích bào tử trùng Myxobolus sp. có thể điều trị được bằng cách trộn thuốc Sulfadiazine, hoặc ESB3 (thuốc điều trị cầu trùng gia cầm), hoặc dùng thuốc Tiên đắc (Health Fish) vào thức ăn cho cá ăn liên tục 5 ngày, khối u dần biến mất, cá trở lại bình phục.
Để phòng bệnh kênh mang ở cá Chép do ấu trùng sán lá và do thích bào tử trùng cần áp dụng triệt để kỹ thuật chuẩn bị ao như đảm bảo vệ sinh, khử trùng: phơi khô đáy, phát quang bụi dậm xung quanh ao, bón vôi khử trùng đáy ao và tiêu diệt ốc, sử dụng phân chuồng đã được ủ với vôi bột để diệt trứng sán trong phân, nước lấy vào các ao ương cần qua lưới lọc và cần được khử trùng trước khi thả cá để hạn chế sự xuất hiện của cá tạp. Hạn chế sự xuất hiện của vật chủ trung gian như ốc, hạn chế việc dùng trực tiếp nguồn phân tươi để bón cho các ao ương và một điều cần thiết là hạn chế sự phát tán phân, chất thải của động vật hoang xuống ao nuôi.

