Một số bệnh thủy sản do yếu tố vi sinh thường gặp trong mùa nắng nóng và biện pháp phòng tránh

Trong môi trường ao nuôi thủy sản, sinh vật thủy sinh có vai trò quan trọng trong sự tồn tại, sinh trưởng và phát triển của động vật thủy sản nuôi. Sinh vật thủy sinh là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho động vật nuôi thủy sản đồng thời tạo nguồn oxy cung cấp cho động vật nuôi và góp phần làm trong sạch môi trường. Tuy vậy, bên cạnh các vai trò có lợi thì vi sinh vật thủy sinh cũng có những tác động bất lợi đến động vật nuôi thủy sản. Trong mùa nắng nóng, thực vật thuỷ sinh có thể phát triển mạnh, đặc biệt là tảo có thể phát triển mạnh gây nên hiện tượng nở hoa tiêu thụ hết ôxy tron g ao vào lúc sáng sớm, đến khi tảo tàn lụi sẽ gây độc cho thuỷ sản. Trong các ao nuôi tôm, nếu kỹ thuật quản lý không tốt, có thể tảo đáy sẽ phát triển mạnh làm oxy trong ao biến động theo ngày đêm rất lớn gây sốc hoặc gây chết tôm. Khi thực vật phù du phát triển mạnh, các chỉ số môi trường biến động lớn như chỉ số pH giảm thấp vào lúc sáng sớm và tăng cao vào buổi chiều gây chênh lệnh lớn hơn 0,5 trong một ngày đêm gây sốc làm giảm hệ miễn dịch cho tôm nuôi, chỉ số pH biến động cũng có thể tác động làm tăng tính độc của NH3, H2S. Khi tàn lụi làm ô nhiễm đáy ao, làm tăng lượng vật chất hữu cơ lơ lửng, bám vào mang tôm cá, gây hiện tượng vàng mang, đen mang hoặc một số loài tảo có lớp màng nhầy bên ngoài nên khi động vật thủy sản ăn vào rất khó tiêu hóa có thể gây chết tôm cá. Hiện tượng nở hoa của tảo có thể làm một số chỉ tiêu môi trường biến động lớn, DO và pH sẽ biến động rất lớn. Khi tàn lụi, sự phân hủy do vi khuẩn hay do tác động hóa học đều tiêu hao một lượng oxy đáng kể và thải ra khí độc cho các sinh vật sống trong môi trường, gây hại cho hệ sinh vật đáy. Độc tố sinh ra từ các loài tảo độc có thể làm tổn thương mang, ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của ĐVTS, có thể gây hiện tượng xuất huyết, vỡ mạch máu hay tác động tới hệ thần kinh của ĐVTS.
Sự nở hoa của tảo thường do các nguyên nhân sau: (1) Vùng nước biển ven bờ thường xuyên được bổ sung dinh dưỡng từ nguồn nước thải các hoạt động kinh tế của con người, hoạt động NTTS; (2) Động vật phù du ít sử dụng một số tảo độc; (3) Sốc độ mặn cũng là điều kiện cho sự nở hoa của một số tảo; (4) Sự tăng cường sử dụng các mặt nước biển cho nuôi trồng thủy sản. Đây chính là một trong nhiều tác động tiêu cực của nghề NTTS tới môi trường sinh thái.
Tôm nuôi trong mùa nắng nóng, thuỷ sản nuôi có thể gặp một số bệnh do yếu tố vô sinh gây ra như:
1. Bệnh đỏ, phồng, đen mang trên tôm, cua
a. Nguyên nhân
Nhiệt độ nước cao và thời gian chiếu sáng cho tảo trong một ngày dài là một trong những yếu tố tiên quyết đến sự phát triển mạnh của tảo bên cạnh lượng thức ăn (dinh dưỡng) cho tôm ngày càng được gia tăng. Tảo phát triển mạnh sẽ làm thiếu ô xy vào lúc khuya hoặc sáng sớm. Khi thiếu ô xy, tôm có hiện tượng nuôi đầu lên mặt nước, kéo đàn xung quanh bờ ao. Mang tôm chuyển sang màu hồng, sau đó phồng mang làm tổn thương đến các tế mào ở mang làm tôm yếu, các vật chất vô cơ, hữu cơ báo vào mang gây nên hiện tượng đen mang.
Khi tảo phát triển mạnh và tàn kết hợp với người nuôi sử dụng một số hoá chất "đánh" xuống ao nhằm mục đích diệt tảo sẽ gây hiện tượng tồn dư một số chất kích thích hóa học như: Thuốc tím (KMnO4); Ozone; NH3; NO2... tác động trực tiếp vào mang tôm gây nên một số hiện tượng sau:
- Mang tôm, cua chuyển màu nâu hoặc đen kèm theo thương tổn trên các tơ mang, hô hấp khó khăn,
- Tôm, cua nổi đầu, dạt bờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, gây chết rải hoặc chết hàng loạt nếu DO dưới ngưỡng thích hợp,
- Do nền đáy ô nhiễm, ứ đọng các chất thải hữu cơ nên tôm, cua là các động vật giáp xác sống ở đáy ao, các chất thải bám váo mang gây hiện tượng đen mang,
- Tảo phiêu sinh trong ao quá dày, khi tàn lụi đồng loạt làm tăng đáng kể vật chất hữu cơ lơ lửng trong nước, chúng bám vào mang tôm, cua gây đen mang.
b. Biện pháp phòng tránh
Để phòng bệnh này trong các ao nuôi tôm cần: (1) Ổn định màu tảo, không cho tảo phát triển quá dày và tàn lụi đệt ngột; (2) Ổn định pH để giảm tính độc của một số chất khí độc (NH3, H2S); (3) Xác định chính xác khẩu phần thức ăn, tránh dư thừa thức ăn. Cho tôm ăn hơi thiếu một chút so với khẩu phần ăn; (4) Dùng chế phẩm sinh học định kỳ để làm sạch đáy ao; (5) Kìm hãm sự phát triển của tảo đáy, duy trì tảo phiêu sinh ổn định; (6) Thay tầng nước đáy định kỳ nếu có nguồn nước sạch.
2. Bệnh bọt khí
a. Nguyên nhân
Hiện tượng quá bão hòa của một số loại khí trong môi trường ao nuôi (kể cả khí ôxy), ngăn chặn hô hấp, tuần hoàn hoặc tắc ngẽn các mạch máu, gây chết hàng loạt nếu không có biện pháp kịp thời.
b. Dấu hiệu
Khi tôm cá bị bệnh này có dấu hiệu:
- Bơi nhanh và bất thường trên mặt ao với phần đầu ngực nhô lên cao trên mặt nước và đớp khí.
- Bọt khí tập trung ở trên mang, dưới lớp võ kitin của giáp xác, trên mang, vây, vẩy của cá.
- Mang có thể có màu trắng nhợt nhạt do sự tập trung của bọt khí
- Tôm cá bị bệnh sẽ chết rất nhanh và kèm theo các chỉ số Oxygen, Nitrogen ở mức bão hòa.
c. Biện pháp phòng tránh
Để phòng bệnh này trong các ao nuôi tôm cần:
- Ngăn chặn hiện tượng quá bão hòa của các chất khí trong hệ thống nuôi, hệ thống nhốt giữ hay vận chuyển.
- Chống ô nhiễm hữu cơ, hiện tượng nở hoa của tảo.
- Thận trọng khi cung cấp oxy vận chuyển ĐVTS.
- Khi bệnh xảy ra cần thay nước kịp thời.
3. Bệnh co rút ở tôm
a. Nguyên nhân
Bệnh do sự biến động nhiệt đột ngột, hoặc thiếu hụt các chất vi lượng trong khẩu phần thức ăn của tôm cũng được cho rằng có liên quan tới bệnh này.
b.Dấu hiệu
Tôm bị bệnh này có dấu hiệu cơ co rút cứng ngay cả khi tôm vẫn còn sống, đuôi tôm cong về phía bụng, dung tay không bẻ ra được. Có 2 trạng thái co rút: co rút hoàn toàn và co rút không hoàn toàn. Những con tôm bị co rút hoàn toàn thường nằm nghiêng và nếu đưa chúng về điều kiện môi trường thích hợp nó cũng không trở lại bình thường. Ngược lại, những con chỉ bị co rút không hoàn toàn, nếu nhanh chóng đưa về điều kiện thích hợp, cơ thể sẽ trở lại trạng thái bình thường.
c.Biện pháp phòng tránh
Để phòng bệnh này, cần tránh hiện tượng gây sốc do nhiệt độ, cần đảm bảo độ sâu cho ao nuôi tôm, tránh bắt tôm vào những ngày có nhiệt độ cao hay nhiệt độ thấp. Nên chọn mùa vụ nuôi thích hợp và nâng cao độ sâu để tránh những tháng có nhiệt độ thấp hoặc cao. Trong các trại giống, ương ấp ấu trùng cần chú ý nâng nhiệt vào mùa có nhiệt độ thấp.
4. Bệnh hoại tử cơ do yếu tố vô sinh
a. Nguyên nhân
Bệnh do các yếu tố môi trường: DO thấp, nhiệt độ, độ mặn và pH biến động mạnh có tác dụng gây sốc cho tôm nuôi làm rối loạn trao đổi chất dẫn đến một số vùng cơ bị hoại tử.
b. Dấu hiệu
Cơ có màu trắng đục trên mặt lưng của phần bụng, mép ngoài đuôi có màu đen do mòn cụt, tôm hoạt động yếu, kém ăn hay bỏ ăn, có thể chết rải rác.
Cần có nghiên cứu cụ thể để phân biệt các lọai đục thân và tìm hiểu các nguyên nhân chính mới có thể có các biện pháp khắc phục.
. Biện pháp phòng tránh
Để phòng bệnh này cần giảm mật độ nuôi, không nên cho ăn quá nhiều dẫn đến dư thừa. Quản lý các yếu tố môi trường ổn định tránh gây sốc cho tôm.
5. Bệnh mềm vỏ ở tôm, cua
a. Nguyên nhân
Bệnh này liên quan tới một số yếu tố môi trường và dinh dưỡng như nuôi tôm trong môi trường nước có độ cứng thấp, các chỉ số môi trường biến động gây sốc ảnh hưởng đến quá trình hấp thu từ thức ăn và từ môi trường nước. Ngoài ra, khi tôm cua bị các bệnh mãn tính cũng ảnh hưởng đến quá trình hấp thu.
b. Dấu hiệu bệnh:
Vỏ giáp xác không cứng được sau khi lột xác, tôm yếu ớt, kém vận động, kém bắt mồi, hay vùi minh nên sẽ dễ bị sinh vật cơ hội tấn công vì vậy sau khi xảy ra bệnh mềm vỏ tôm thường bị bẩn minh, bẩn mang và chết rải rác do các tác nhân cơ hội.
c. Biện pháp phòng tránh
Định kỳ bón vôi (CaCO3) hay Dolomite để ổn định độ kiềm trong ao với liều lượng từ 80-160 mg/l cho ao nuôi tôm trong thời gian 15 ngày/lần. Trong môi trường có độ cứng thấp phải cung cấp một lượng khoáng thích hợp trong khẩu phần thức ăn. Tránh các bệnh mãn tính và bệnh đường ruột vì có thể gây rối loạn quá trình hấp thụ khoáng, làm cơ thể thiếu khoáng và phát sinh bệnh mềm vỏ. Quản lý môi trường thích hợp, tránh hiện tượng gây sốc cho tôm.
6. Bệnh thiếu Vitamin C ở động vật thủy sản
a. Bệnh thiếu Vitamin C trên giáp xác(tôm, cua)
Các vùng cơ có màu đen dưới lớp võ kitin ở mặt lưng của phần bụng, ở chân bơi, chân bò và các vệt đen trên mang tôm, có thể có ở dạ dày và ruột. Giáp xác kém ăn hoặc bỏ ăn, khả năng chịu sốc giảm sút, mẫn cảm với các loại bệnh, khả năng hồi phục chậm.
b. Bệnh thiếu Vitamin C trên cá nuôi
Cá bị dị tật xương sống, tật ưỡn lưng và xuất huyết gốc vây, xung quanh miệng, mắt và màu màu sắc cơ thể chuyển sang màu đen tối. Giảm sinh trưởng và khả năng chống chịu sốc và sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh khác.
Phòng bệnh: Bổ sung lượng Vitamin C thích hợp cho từng đối tượng nuôi, tùy theo loại thức ăn, nhất là trong trường hợp sử dụng thức ăn tổng hợp. Đặc biệt trong môi trường nuôi thiếu tảo.
Để khắc phục những bệnh này gây ra trên thuỷ sản nuôi thương phẩm. Chi cục Thú Y đã phối hợp với ban Quản lý Chương trình FSPS II Bình Định tổ chức 5 lớp tập huấn cho cán bộ thú y Trạm huyện, cán bộ thú y thôn, xã của tất các xã có nuôi trồng thuỷ sản để đội ngũ cán bộ này về địa phương tuyên truyền và hướng dẫn cho người nuôi trồng thuỷ sản nói chung và người nuôi tôm cá nói riêng phòng trách những thiệt hại không đáng xảy ra do những bệnh này gây nên./.
Theo Báo Bình Định