Tôm
hùm là tên gọi chung của một nhóm các loài giáp xác có kích thước
lớn thuộc họ Palinuridae. Hiện nay, tôm hùm là một loại hải đặc
sản đã và đang được chú trọng trong nuôi trồng Thủy sản,
thịt của chúng thơm ngon, giàu đạm, được nhiều người ưa thích
là đối tượng có giá trị xuất khẩu cao.
Ở
Việt Nam, tôm hùm phân bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận đặc
biệt phân bố nhiều ở các tỉnh như : Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình
Thuận.
Trong
giống tôm hùm thì loài tôm hùm bông (hùm sao) có tên khoa học là
Panulirus ornatus có kích thước tương đối lớn, tốc độ tăng trưởng
nhanh và có thể nuôi được mật độ cao, đã và đang được nuôi
nhiều ở các tỉnh miền Trung mà đặc biệt là Khánh Hòa mang
lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo
thống kê năm 2001 tỉnh Phú Yên có 11.000 lồng tập trung chủ yếu
tại các xã Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Cảnh, Xuân Thọ và
Thị trấn Sông Cầu huyện Sông Cầu, tỉnh Khánh Hòa có khoảng
8000 lồng tập trung chủ yếu ở huyện Vạn Ninh và Cam Ranh. Ở
tỉnh ta tính đến cuối năm 2002 có 508 lồng nuôi tôm hùm lồng
tập trung chủ yếu tại Vĩnh Hy và Bình Tiên. Nghề nuôi tôm hùm
thương phẩm phát triển đã góp phần tạo công ăn việc làm và
tạo thu nhập đáng kể cho một bộ phân dân cư ven biển. Tuy nhiên
hiện nay nghề nuôi tôm hùm của cả nước nói chung và của tỉnh
ta nói riêng đang gặp phải một số khó khăn đó là tình hình
dịch bệnh và con giống ngày càng khan hiếm.
Ðể góp phần giúp người nuôi tôm hùm có được những kiến
thức về kỹ thuật nuôi, phương pháp phòng trị bệnh chúng tôi
tiến hành biên soạn tài liệu: " Kỹ thuật nuôi và phương pháp
phòng trị bệnh tôm hùm ".
Vì khả năng
có hạn, tài liệu chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi
rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bà con nuôi tôm cùng
bạn đọc.
B/ MỘT SỐ
ÐẶC ÐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM HÙM BÔNG.
Tôm hùm có nhiều loài, ở vùng biển Ấn Ðộ - Tây Thái Bình Dương
có tất cả 11 loài, trong đó vùng biển từ Phú Yên đến Bình
Thuận có 7 loài : Tôm hùm bông (hùmsao), tôm hùm đá (hùm xanh), tôm
hùm đỏ, tôm hùm ma, tôm hùm vằn, tôm hùm mốc và tôm hùm sỏi.
Ở Việt Nam có 3 loài chiếm sản lượng đáng kể là : Tôm hùm bông,
tôm hùm đá (hùm xanh) và tôm hùm đỏ, trong đó tôm hùm bông là
loài có kích thước và số lượng tương đối lớn. Hệ thống phân
loại của tôm hùm bông như sau:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ:
Palinuridae
Giống: Panulirus
Loài: P. ornatus (Tôm hùm bông, hùm
sao).
2/ Ðặc điểm
phân bố.
Trên thế giới tôm hùm phân bố chủ yếu ở các vùng biển
Nhiệt đới đến Á nhiệt đới như: Úc, Ðài Loan, Trung Quốc,
Nhật Bản, Indonesia...
Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Trung
từ Quảng Bình đến Bình Thuận, đặc biệt phân bố nhiều ở các
tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Phân bố theo độ sâu: Tùy vào giai đoạn phát triển và tùy vào
từng loài mà chúng phân bố theo độ sâu khác nhau. Ở giai đoạn
trưởng thành tôm hùm bông thường phân bố ở độ sâu từ 20m
trở lên, ở giai đoạn ấu trùng và con non chúng thường phân bố
ở các bãi rạn, đá san hô ở độ sâu từ 2 - 10m nước.
Tôm hùm thường sống ở các bãi rạng đá, rạng san hô nơi có
nhiều hang hốc, khe rãnh ven biển. Chúng có tập tính sống quần
tụ chủ yếu là ở tầng đáy với chất đáy sạch, không bùn.
Ban ngày trú ẩn trong các hang đá ít hoạt động, ban đêm hoạt động
tích cực tìm mồi.
Tôm hùm
sống thích hợp ở các vùng biển có độ mặn từ 30 - 36 phần ngàn,
nhiệt độ từ 25 - 32 độ C.
3/ Ðặc điểm
dinh dưỡng.
Tôm hùm là loại động vật ăn tạp, trong tự nhiên chúng ăn chủ
yếu là các loại động vật như: Cá, tôm, cua ghẹ, cầu gai, giáp
xác nhỏ, nhuyễn thể...ngoài ra còn ăn các loại thực vật như
rong rêu., chúng thường có tập tính bắt mồi tích cực vào ban đêm
và tờ mờ sáng. Tuỳ vào giai đoạn phát triển mà nhu cầu dinh dưỡng
khác nhau, tôm càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao, ở giai đoạn
trước lột xác 2-4 ngày tôm ăn rất mạnh, giai đoạn lột xác tôm
sẽ ăn chậm lại.
4/ Ðặc điểm
sinh trưởng.
Tôm hùm cũng như nhiều giáp xác khác sinh trưởng thông qua quá trình
lột xác. Ở giai đoạn tôm còn nhỏ chu kỳ lột xác ngắn, tôm càng
lớn chu kì lột xác càng dài, sau mỗi lần lột xác thì kích thước
và khối lượng của tôm tăng lên rất nhiều. Nhìn chung thì tôm hùm
có chu kỳ lột xác dài hơn so với các loài giáp xác khác, do vậy
tốc độ tăng tưởng của chúng tương đối chậm.
5/ Ðặc điểm
sinh sản.
Tôm hùm P. ornatus sinh sản rải rác quanh năm, nhưng mùa vụ sinh
sản chính từ tháng 8 đến tháng 9 hàng năm.
Sức sinh sản của tôm hùm tương đối lớn và chúng có thể đẻ
nhiều lần trong một năm(thường là 2 lần/năm) . Tôm hùm có kích
thước vỏ đầu ngực từ 90 -99 mm đã bắt đầu tham gia sinh
sản. Tôm hùm khi đẻ trứng được giữ ở các chân bơi sau một
thời gian trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng này trải qua một
loạt các quá trình biến thái để trở thành tôm hùm con có hình
dạng giống tôm trưởng thành. Từ lúc trứng nở đến giai đoạn
"tôm trắng" kéo dài khoảng 10 -12 tháng.
C/ KỸ
THUẬT NUÔI TÔM HÙM LỒNG.
1/ Chọn địa
điểm đặt lồng nuôi.
Chọn địa điểm đặt lồng nuôi tôm hùm là khâu đầu tiên không
kém phần quan trọng. Ðịa điểm chọn đặt lồng nuôi phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
- Nơi có độ mặn cao, tương đối ổn định nằm trong khoảng
từ 30 - 36 phần ngàn, ít bị ảnh bỡi lũ, lụt, những vùng biển có
nhiệt độ từ 24 -32 độ C tốt nhất là từ 26-30 độ C.
- Có nguồn nước trong sạch, ít bị ảnh hưởng bởi chất thải
công nghiệp, nông nghiệp và đô thị.
- Là nơi kín gió, có độ sâu phù hợp cho việc xây dựng và
quản lí lồng nuôi, mức nước tối thiểu khi triều xuống thấp
nhất phải đạt 2m, chất đáy là cát; cát bùn; hoặc chất đáy cát,
cát bùn có lẫn đá san hô nhỏ, vỏ động vật thân mềm.
- Gần nguồn giống, thức ăn và thuận tiện đường giao thông.
2/ Thiết
kế xây dựng lồng nuôi.
Tùy vào điều kiện từng vùng biển mà có thể thiết kế các
kiểu lồng nuôi khác nhau. Hiện nay có 2 kiểu lồng nuôi phổ
biến: kiểu lồng hở và kiểu lồng kín.
a/ Kiểu
lồng hở:
Là loại lồng được cố định bỡi các cọc gỗ găm xuống đất.
*
Nguyên vật liệu và cách xây dựng
- Kích thước lồng nuôi phù hợp là: 4 x 4(m); 3 x
4(m) và 4 x 5(m), chiều cao cọc làm lồng phụ thuộc vào độ sâu
tại nơi đặt lồng, tốt nhất nên đặt tại nơi có độ sâu 2 -
5m (lúc thủy triều thấp nhất).
- Nguyên vật liệu và
cách làm.
+ Cọc gỗ: có thể dùng gỗ tròn f =15-20 cm hoặc gỗ xẻ (gỗ 5 x
10 cm), chiều dài cọc gỗ phụ thuộc vào độ sâu nơi đặt lồng
( cọc gỗ phải có chiều dài cao hơn độ sâu cao nhất khi triều
cường tại nơi đặt lồng khoảng 0,5m). Cọc được vót nhọn
một đầu và được cắm chặt xuống đất, khoảng cách giữa 2
cọc từ 1,5 - 2m.
+ Nẹp ngang thường dùng gỗ tròn có f = 12 -15 cm hoặc dùng gỗ
xẻ (gỗ 4 x 6 cm), nẹp cách nẹp 1,5 đến 2m.
+ Sắt làm khung lồng: dùng sắt tròn (sắt rằn) có f = 18 -20 mm
được làm thành các khung hình chữ nhật, khoảng cách giữa 2
thanh sắt từ 1 -1,2 m, chiều cao (rộng) của khung sắt làm thân
lồng cao từ 1 -2m, lưới lồng được bệnh trực tiếp vào các
khung sắt sau đó lắp ghép lại và được cố định bỡi khung
cọc gỗ.
+ Lưới lồng: Hiện nay, phổ biến là làm lồng theo kiểu lồng 1
lớp hoặc 2 lớp lưới lồng ghép sát vào nhau. Vật liệu bằng lưới
nhợ hoặc bằng lưới PE, kích thước mắt lưới 2a = 25 -35mm (tùy
theo cỡ giống thả nuôi), đối với tấm lưới đáy còn làm thêm
một lớp lưới ruồi nhằm đảm bảo thức ăn không bị lọt ra
ngoài khi cho ăn. Ngoài ra để đảm bảo an toàn ta cần gia cố thêm
một lớp lưới cước (cước 150 -180), kích thước mắt lưới 2a
= 35 - 40mm tại những phần có làm khung sắt. Những lồng sử
dụng để ương tôm hùm giống thì kích thước mắt lưới nhỏ hơn
sao cho đảm bảo tôm không chui ra được ( 2a < 5mm).
+ Mặt trên của lồng phải có nắp đậy bằng lưới tránh thất
thoát tôm do bắt trộm hay do triều khi triều cao ngập lồng nuôi.
Trong những ngày nắng nóng, lồng nuôi xây dựng ở những vùng nước
nông phải tiến hành che mát cho tôm trên mặt lồng bằng các vật
liệu như lá dừa, cót,. hoặc dùng nắp lồng bằng lưới ruồi để
tránh tôm hoạt động quá nhiều hay tôm bị đóng rong.
b/ Kiểu
lồng kín: (lồng di động).
Loại lồng này thích
hợp ở những vùng nhiều sóng gió, độ sâu cao.
-
Kích thước lồng kín thường nhỏ hơn lồng hở để thuận tiện
cho việc di chuyển.
-
Kích thước lồng phù hợp theo: dài x rộng x cao tương ứng là: 3
x2x2 (m) hoặc 3 x3 x2 (m), được thiết kế giống như một hình
hộp chữ nhật được tạo bỡi các khung sắt hình chữ nhật, trên
phần nắp lồng được đặt một cái ống nhựa f = 10 -15 cm để
thuận tiện trong việc cho ăn.
Vật liệu sắt, cách làm khung, vật liệu lưới và cách bệnh lưới
vào khung sắt tương tự như lồng hở.
Loại lồng này không cố định bằng cọc, có thể di chuyển một
cách dễ dàng từ nơi này đến nơi khác.
Trong trường hợp tại nơi nhiều sóng gió loại lồng này phải
được cố định bằng các dây neo.
*
Dù là kiểu lồng kín hay lồng hở ta đều phải đặt lồng cách
đáy ít nhất là 0,5m.
*
Nhược điểm của loại lồng này là khó thao tác chăm sóc quản lí
hơn kiểu lồng hở.
c/ Lồng
ương tôm giống
Lồng ương tôm giống chủ yếu thiết kế theo kiểu lồng kín,
khung lồng được làm bằng sắt (f =16 -20), kích thước lồng phổ
biến là 2x2x2 m, lưới lồng được làm 2 lớp, với kích thươc
mắt lưới 2a = 2-3 mm.
d/ Bè nuôi
Hiện nay, do hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng nên
việc việc nuôi tôm hùm lồng bằng bè trở nên ưu thế hơn lồng
cố định hay lồng chìm, tuy nhiên việc nuôi tôm hùm bằng bè
cần lưu ý một số điểm sau:
- Vùng đặt bè phải kín gió, vật liệu làm bè như phao, gỗ, dây
neo phải chắt chắn tránh bè bị chao đảo nhiều.
- Cần phải che mát lồng bằng các vật liệu: Bạt, cót...
3/ Thả
tôm.
a/ Chọn
giống thả nuôi.
Hiện nay, trong nước cũng như trên thế giới chưa sản xuất được
giống tôm hùm, nguồn giống phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt
tự nhiên. Kích cỡ giống thường không đồng đều, con giống
được đánh bắt bằng nhiều phương tiện khác nhau kể cả việc
sử dụng các loại thuốc gây mê, thuốc nổ,... thời gian lưu
giữ dài ngày và kỹ thuật lưu giữ không tốt nên khi nuôi thường
dẫn đến một hậu quả là tôm thường chết nhiều vào giai đoạn
đầu thả nuôi, tỷ lệ sống thấp và tôm chậm lớn,....
Ðể
chọn được giống tốt ta cần chú ý một số vấn đề sau:
-
Giống nuôi tốt nhất nên mua tại địa phương nhằm tránh sự khác
biệt về điều kiện môi trường, thời gian vận chuyển xa làm
yếu tôm và tránh con giống đã được lưu giữ dài ngày (một
số điểm để nhận biết tôm giống đã lưu giữ dài ngày là :
chạt đuôi bị phòng, bị tổn thương; các phụ bộ bị tổn thương
đã chuyển sang màu đen, màu sắc của tôm trở nên đen sậm, vỏ
không còn bóng láng và tôm hoạt động yếu ớt, chậm chạp.)
- Giống được đánh bắt một cách tự nhiên không qua việc sử
dụng thuốc nổ hay bất kỳ một loại hóa chất gây mê nào khác.(
loại tôm này thường còn nguyên vẹn các phụ bộ nhưng màu sắc
của tôm thường chuyển sang màu hồng nhợt nhạt, phần đầu
ngực và phần thân dãn ra hơn bình thường trông giống như tôm
bị bệnh lỏng đầu do nhiệt độ nước cao hay độ mặm hạ
thấp, tôm hoạt động chậm chạp yếu ớt; việc đánh bắt tôm
tại các vùng biển có độ mặn thấp do ảnh hưởng của mưa lũ
gây ra cũng có hiện tượng tương tự). Khi mua phải loại tôm này
tôm nuôi sẽ chết từ rải rác đến hàng loạt vào giai đoạn đầu
thả nuôi.
- Tôm giống phải có hình dáng cân đối, đầy đủ các phần
phụ, không trầy sướt, thương tổn, có màu sắt tươi sáng tự
nhiên, tôm khoẻ mạnh, không mang mầm bệnh.
- Chọn giống có kích cỡ đồng đều, cùng giới tính để nuôi
trong cùng một lồng, kích cỡ giống nuôi có thể dao động từ
100 -500g/con . Trong trường hợp sử dụng nguồn con giống có kích
cỡ nhỏ như dạng tôm bò cạp ta phải tiến hành giai đoạn ương
nuôi sau đó tuyển chọn lại và đưa và nuôi thương phẩm.
b/ Cách
vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
Tôm hùm có phương thức hô hấp tương tự như các loài cua, ghẹ
chúng có khả năng sử dụng được nguồn oxy trong không khí và có
khả năng chịu được ngưỡng oxy thấp.
Có 2 phương pháp vận
chuyển giống là vận chuyển nước có sục khí và phương pháp
vận chuyển khô:
+ Phương pháp vận chuyển nước: Là phương pháp vận chuyển sử
dụng nước có sục khí để cung cấp oxy, nhiệt độ nước trong
quá trình vận chuyển là 22 - 25 độ C bằng cách cho đá lạnh vào các
bọc nhựa sau đó bỏ vào dụng cụ chứa, mật độ vận chuyển
phụ thuộc vào kích cỡ tôm và thời gian vận chuyển. Phương pháp
này thường áp dụng khi thời gian vận chuyển >2 giờ.
+ Phương pháp vận chuyển khô: Cách tiến hành của phương pháp này
là ta tiến hành sốc nhiệt ở nhiệt độ 20 - 22 độ C sau đó buộc tôm
vào trong các khăn lông đã nhúng nước và sắp theo từng lớp vào
thùng xốp đã chuẩn bị sẵn sao cho các lớp tôm không chồng lên
nhau, chú ý giữa các lớp tôm ta rải thêm đá lạnh cũng bằng cách
bỏ vào trong các túi nhựa sao cho vừa đủ bảm bảo giữ nhiệt
độ ổn định từ 22 - 25 độ C, phương pháp này áp dụng cho thời
gian vận chuyển < 2 giờ.
c/ Thả
tôm
Khi tôm vận chuyển đến lồng nuôi ta tiến hành nâng dần nhiệt
độ lên cho đến khi gần bằng với nhiệt độ môi trường nuôi
bằng cách cho dần dần nước từ môi trường nuôi vào dụng cụ
chứa tôm sau đó thả tôm vào các giai đã đặt sẵn trong lồng
sau 30 - 60 phút cho tôm hồi phục sức khỏe hoàn toàn ta mới thả tôm
ra.
Trong quá
trình thả tôm ta phải thả tôm đực riêng, cái riêng và thả theo
từng nhóm kích cỡ không nên thả chung.
d/ Mật
độ nuôi
Tôm hùm chủ yếu sống ở tầng đáy, nên mật độ nuôi được tính
theo diện tích đáy lồng. Tùy vào kích cỡ tôm, mức độ đầu tư, điều kiện môi trường mà ta có thể nuôi với mật độ cao hay
thấp. Ðối với tôm giống có kích cỡ từ 100g/con trở lên ta có
thể thả nuôi với mật độ từ 8 -10 con/m2.
4/ Thời
vụ thả nuôi.
Trong tự nhiên tôm hùm được khai thác quanh năm nhưng tập trung lượng
giống nhiều vào các tháng 8 -12 hàng năm nên vào thời gian nay chúng
ta nên tập thả giống nuôi.
5/ Chăm
sóc và quản lí.
Chăm sóc quản lí là khâu đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến
hiệu quả của suốt quá trình nuôi.
- Thức ăn và cách cho ăn: Tôm hùm là loại tạp ăn, thức ăn chủ
yếu là cá tạp, cua, ghẹ, cầu gai, .và các loại nhuyễn thể. Cho
ăn chủ yếu là cho ăn tươi, tuỳ vào kích cở tôm, cở mồi mà
ta có thể băm nhỏ thức ăn hay không. Có thể cho tôm hùm ăn 2
lần/ngày nhưng phải đặc biệt chú ý cho ăn nhiều vào các buổi
sáng sớm và chiều tối. Lượng cho ăn hằng ngày từ 15-20% trong lượng
đàn tôm. Trong những ngày trước lúc lột xác 4 - 5 ngày tôm ăn
rất mạnh và đang trong thời kì lột xác nhiều tôm giảm ăn chính
vì vậy ta cần chú ý vào các thời điểm này mà điều chỉnh lượng
thức ăn cho phù hợp. Quá trình lột xác của tôm phụ thuộc vào
chu kì con nước, thường thì tôm sẽ lột xác nhiều vào cuối kì
con nước lớn.
- Quản lí: Thường xuyên lặn kiểm tra lồng, kiểm tra tình trạng
tôm, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu để từ đó có hướng
giải quyết kịp thời. Ðịnh kỳ 10 -15 ngày vệ sinh lồng nuôi
một lần đảm bảo môi trường sạch sẽ thông thoáng.
6/ Một
số bệnh thường gặp và cách phòng trị.
a/ Bệnh
đóng rong.
* Nguyên nhân do các nguyên nhân sau:
- Ðộ trong của nước cao làm khả năng xuyên sâu ánh sáng lớn.
- Tôm ít hoạt động, kém ăn chậm lớn, chu kỳ lột xác chậm.
* Phòng bệnh:
- Che mát làm giảm độ trong của nước mà đặc biệt chú ý là vào
mùa nắng nóng.
- Tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách sử dụng thức ăn đủ
về chất lẫn về lượng.
- Vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, tạo môi trường thông thoáng, mật
độ nuôi vừa phải.
*Trị bệnh:
- Bắt những con tôm bệnh tắm bằng formol với nồng độ 100 -
200ppm (1 -2 ml formol/10 lít nước), trong thời gian từ 5 - 10 phút.
b/ Bệnh
đen mang, mòn đuôi, hoại tử các phần phụ.
* Tác nhân gây bệnh chủ yếu là do vi khuẩn mà nguyên nhân chủ
yếu là do lồng nuôi bị dơ bẩn, môi trường nước bị ô
nhiễm, tôm kém ăn sức khỏe yếu.
* Phòng bệnh: Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, tạo môi
trường thông thoáng, tăng cường sức khỏe cho tôm bằng cách cho
tôm ăn thức ăn đầy đủ cả về chất lẫn về lượng, ngoài ra
còn có thể bổ sung thêm Vitamin C vào thành phần thức ăn của tôm
với liều lượng từ 5 -10g/kg thức ăn.
* Trị bệnh:
- Có thể tắm tôm bằng formol với nồng độ 100 -200 ppm hoặc
tắm tôm bằng sunfat đồng (CuSO4) với nồng độ 1- 2 ppm (0,01 -0,02g
CuSO4/10 lít nước) trong thời gian từ 5- 10 phút.
- Sử dụng các loại thuốc kháng sinh: N - 300, Daitrim,..
trộn vào thức ăn với liều lượng từ 3 -5 g/1kg thức ăn cho ăn
liên tục từ 5 -7 ngày.
c/ Bệnh
lỏng đầu.
* Nguyên nhân:
- Chủ yếu là do độ mặn tại khu vực nuôi giảm thấp dưới
25 phần ngàn và kéo dài nhiều ngày.
- Ngoài ra vào mùa nắng nóng , nhiệt độ nước quá cao > 31 độ C tôm
nuôi cũng dễ xảy ra hiện tượng này.
* Phòng và trị bệnh:
- Ðặt lồng nuôi tại vị trí có độ mặn cao và tương đối
ổn định. Di chuyển lồng nuôi đến vị trí có độ mặn cao hơn.
- Che mát cho tôm vào mùa nắng nóng, di chuyển đến vị trí có độ
sâu cao.
c/ Bệnh
lỏng đầu.
* Nguyên nhân:
-
Chủ yếu là do độ mặn tại khu vực nuôi giảm thấp dưới
25 phần ngàn và kéo dài nhiều ngày.
-
Ngoài ra vào mùa nắng nóng , nhiệt độ nước quá cao > 31 độ C tôm
nuôi cũng dễ xảy ra hiện tượng này.
* Phòng và trị bệnh:
- Ðặt lồng nuôi tại vị trí có độ mặn cao và tương đối
ổn định. Di chuyển lồng nuôi đến vị trí có độ mặn cao hơn.
- Che mát cho tôm vào mùa nắng nóng.
7/ Thu
hoạch và tiêu thụ sản phẩm.
Sau thời gian nuôi từ 12 -15 tháng tùy vào cỡ giống, mật độ nuôi
và mức độ đầu tư tôm có thể đạt khối lượng từ 1,2 kg/con
trở lên ta tiến hành thu tỉa những con có khối lượng lớn,
cứng vỏ, không mang trứng vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Phương
pháp vận chuyển đến nơi tiêu thụ tương tự như cách vận
chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
(Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Ninh Thuận)
Để nâng cao năng suất tôm hùm nuôi thương phẩm
Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả
thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi. Sau đây
là một số lưu ý nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm thương
phẩm…
1. Lồng nuôi: Để tận dụng tối đa
diện tích thì lồng nên có dạng hình khối hộp vuông, vì hình vuông có
diện tích lớn nhất, đồng thời lưu thông nước ở từng vị trí đặt lồng nuôi
không theo hướng dẫn nhất định. Tùy theo quy mô nuôi, điều kiện chăm
sóc quản lý và nguyên vật liệu làm lồng mà sử dụng kích thước lồng khác
nhau. Tuy nhiên, lồng càng lớn khả năng lưu thông nước bên trong và
ngoài lồng càng giảm, đồng thời năng suất tôm hùm nuôi lồng tỉ lệ nghịch
với độ lớn của lồng. Người nuôi nên dùng loại lồng 16-20m2 là phù hợp
với quy mô hộ gia đình và năng suất tôm hùm nuôi.
2. Vị trí đặt lồng: Nên đặt lồng nuôi ra vùng xa
bờ để trao đổi nước tốt hơn. Độ sâu mức nước nơi đặt lồng tối thiểu khi
triều thấp là 4m (đối với nuôi lồng găm), từ 4–8m (đối với nuôi lồng
sắt) và hơn 8m (đối với lồng nổi). Đáy lồng cách đáy biển hơn 0,5m là
tốt nhất. Nơi đặt lồng nuôi phải đảm bảo cách bờ hơn 1.000m. Nền đáy là
cát hoặc cát pha bùn có lẫn san hô gạc nai và không bị ô nhiễm. Môi
trường nước vùng nuôi tôm hùm phải đảm bảo các chỉ tiêu: nhiệt độ từ
24-310C; pH: 7,5–8,5; độ muối từ 30–35‰; ôxy hòa tan: 6,2–7,2mg/l.
3. Mật độ thả: Mật độ ương nuôi tôm hùm tùy thuộc
vào kích cỡ của tôm giống. Cỡ giống tôm trắng: 30-40 con/m2lồng; Cỡ
giống 1,5-4,0g/con thả 25-30 con/m2 lồng; Cỡ giống 4-10g/con thả 15-20
con/m2 lồng; Cỡ giống 10-50g/con thả 10-15 con/m2 lồng; Cỡ giống
50-200g/con thả 7-10 con/m2 lồng; Cỡ giống hơn 200g/con trở lên thả 3–5
con/m2lồng.
4. Khoảng cách giữa các lồng nuôi: Khoảng cách
giữa các lồng nuôi cần bố trí phù hợp để đảm bảo sự lưu thông nước tốt.
Đối với các vùng nuôi nhiều nên duy trì 30–60 lồng/ha mặt nước.
5. Thức ăn cho tôm: Thức ăn chủ yếu là thức ăn
tươi sống bao gồm các loại động vật giáp xác (tôm, cua, ghẹ...), động
vật thân mềm (sò lông, sò đá, ốc bươu vàng...), các loài cá tạp (cá sơn,
cá liệt, cá mối, cá chuồn...). Trong đó, thức ăn là giáp xác đóng vai
trò quyết định trong thành phần dinh dưỡng của tôm hùm nuôi vì loại thức
ăn này có hàm lượng axit béo không no phức hợp và axit béo không no cao
phân tử (chiếm 6,1%) cao vượt trội hơn so với thức ăn là cá và thân
mềm. Tuy nhiên, nếu kết hợp ba loại thức ăn tươi là cá, giáp xác và thân
mềm theo một tỉ lệ nhất định ở từng thời kỳ phát triển của tôm nuôi là
một giải pháp tối ưu về giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế trong tôm
hùm nuôi lồng. Công thức cho ăn: 1 phần giáp xác + 1 phần thân mềm + 2
phần cá, tôm sẽ có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp. Đây là
thức ăn kết hợp có hiệu quả cao nhất và tiết kiệm được chi phí thức ăn
so với việc sử dụng các loại thức ăn khác.
6. Quản lý và chăm sóc tôm: Đối với tôm cỡ ≥
200g/con, cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng cho ăn vào
chiều tối chiếm 70% lượng thức ăn trong ngày. Thức ăn cho tôm có thể để
nguyên con hoặc cắt nhỏ. Tùy loại thức ăn mà xác định lượng cho ăn hợp
lý, khẩu phần ăn hàng ngày bằng khoảng 15-17% khối lượng tôm thả. Hàng
ngày nên kiểm tra, theo dõi tình trạng sức khỏe, hoạt động của tôm và
mức độ sử dụng thức ăn để có điều chỉnh hợp lý. Loại bỏ thức ăn thừa, vỏ
lột xác; định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bít lỗ
lưới. Đối với các lồng nuôi tôm hùm con, do có mắt lưới nhỏ nên thường
bị sun, hà bám vì vậy cần vệ sinh định kỳ để tạo sự lưu thông nước tốt,
hạn chế ô nhiễm. Khi tôm đạt cỡ 500-600g/con nên san thưa tôm với mật độ
4-5 con/m2 lồng. Sau 20-24 tháng nuôi có thể thu hoạch tôm hùm thương
phẩm.
Trong quá trình nuôi nếu thấy chất đáy có màu nâu và sinh vật đáy
chủ yếu là nhuyễn thể thì đó là dấu hiệu tốt. Nếu chất đáy có màu đen
đậm, mùi khó chịu và sinh vật đáy chủ yếu là giun nhiều tơ thì đó là
những dấu hiệu không tốt, không nên tiến hành vụ nuôi.